Câu 1 . “Nguyên nhân nào thì sinh ra kết quả ấy,
một nguyên nhân sẽ chỉ sinh ra một kết quả tương ứng”. Nhận định trên đúng hay
sai? Hãy giải thích vì sao và lấy ví dụ để chứng minh
Nhận định "Nguyên nhân nào thì sinh ra kết
quả ấy, một nguyên nhân sẽ chỉ sinh ra một kết quả tương ứng" là đúng. Chủ
nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh mối quan hệ gắn kết giữa nguyên nhân và kết quả, cho
rằng mỗi nguyên nhân sẽ chỉ dẫn đến một kết quả cụ thể và không có sự biến đổi.
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động
lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây
ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là một phạm trù dùng để chỉ những biến
đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các
sự vật với nhau gây ra.
Nội hàm của khái niệm nguyên nhân vừa trình bày
đưa lại cho chúng ta nhận thức đầu tiên rất quan trọng, đó là sự vật hiện tượng
không bao giờ là chính bản thân nguyên nhân, chỉ có sự tác động của các sự vật
hiện tượng mới là nguyên nhân.
Tính khách quan
Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan
của bản thân các sự vật. Nó tồn tại ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc
vào việc ta có nhận thức được nó hay không.
Vì mối quan hệ nhân quả là vốn có trong bản thân
sự vật nên không thể đồng nhất nó với khả năng tiên đoán.
Tính tất yếu
– Tính tất yếu ở đây không có nghĩa là cứ
có nguyên nhân thì sẽ có kết quả. Mà phải đặt nguyên
nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
Một nguyên nhân nhất định trong những
điều kiện, hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra một kết quả nhất
định. Đó là tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trong những điều kiện nhất
định.
– Nếu những sự vật, hiện tượng về cơ bản là giống
nhau, tác động trong những hoàn cảnh tương đối giống nhau thì sẽ gây nên
những kết quả giống nhau về cơ bản.
Nếu các nguyên nhân và hoàn cảnh càng
ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên càng ít khác
nhau bấy nhiêu.
Tính phổ biến
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và
xã hội đều được gây ra bởi những nguyên nhân nhất định.
Không có sự vật, hiện tượng nào không
có nguyên nhân của nó. Vấn đề là chúng ta đã phát hiện, tìm ra
được nguyên nhân hay chưa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ qua lại như sau
Nguyên nhân sản sinh
ra kết quả.
– Nguyên nhân là cái sinh ra kết
quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết
quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời
gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
– Nếu nguyên nhân khác nhau tác động
lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh
sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau
tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt
tiêu các tác dụng của nhau.
– Cùng một nguyên nhân có thể gây ra
nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại,
cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên
nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên
nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại nguyên
nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên
ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan.
Sự tác động trở lại
của kết quả đối với nguyên nhân
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng
sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối
với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối
với nguyên nhân.
Ví dụ: Nhúng một thanh sắt vừa mới nung đỏ vào
chậu nước nguội, thì nhiệt độ của nước trong chậu sẽ tang lên. Sau đó, nước
trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của thanh sắt.
Sự thay đổi vị trí
giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí
cho nhau Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ
này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược
lại. Engels nhận xét rằng:
” Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ
có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng
biệt nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy
trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại
gắn với nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại một cách phổ biến,
trong đó nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau. Chuỗi nhân quả
là vô cùng, không có bắt đầu và không có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được
coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ
thể”
Ông cũng khẳng định:
” Nguyên nhân và kết quả là những biểu tượng có
ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi nào được áp dụng vào một trường hợp riêng
biệt, nhưng khi ta xét trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó
với toàn bộ thế giới, thì nguyên nhân hội tụ lại và quyện vào nhau trong biểu
tượng về sự tác động qua lại phổ biến trong đó nguyên nhân và kết quả luôn đổi
chỗ cho nhau: cái ở đây hay bây giờ là nguyên nhân, thì ở chỗ khác hay lúc khác
lại trở thành kết quả và ngược lại..”
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện
tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ
này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và
ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do
một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở
thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp
tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi
đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng.
Câu 2. “Lao động là nhân tố hàng đầu trong nguồn
gốc tự nhiên của sự hình thành ý thức con người”. Nhận định trên đúng hay sai
và hãy giải thích vì sao?
Trả lời: Nhận định "Lao động là nhân tố hàng đầu
trong nguồn gốc tự nhiên của sự hình thành ý thức con người" được coi là
đúng. Chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh vai trò quan trọng của lao động trong quá
trình hình thành và phát triển ý thức con người.
Theo quan điểm Mác-Lênin, con người là một phần
của thiên nhiên và hoạt động lao động là hoạt động chủ động của con người trong
việc tương tác với môi trường xung quanh để thay đổi và tạo ra sản phẩm. Qua
hoạt động lao động, con người không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất mà còn tạo ra
các mối quan hệ xã hội và tác động lên thế giới xung quanh.
- Ví dụ, khi con người lao động trong một ngành
nghề cụ thể, qua quá trình làm việc và trải nghiệm, họ tích lũy kiến thức, kỹ
năng, và hiểu biết về lĩnh vực đó. Lao động cũng tạo ra mối quan hệ xã hội, ví
dụ như mối quan hệ lao động giữa công nhân và chủ nhân công việc. Qua lao động,
con người không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất mà còn phát triển ý thức xã hội và
ý thức về vai trò của mình trong xã hội.
· Lao động chính là những hoạt động của con người
sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù
hợp cới nhu cầu của con người. Lao động sẽ tác động đến ý thức của con người
cần phải làm gì và làm như thế nào để có thể thực hiện công việc một cách có
hiệu quả nhất, vừa tiết kiệm được thời gian và công sức. Do đó, lao động có một
tác động rất lơn đến việc hình thành suy nghĩ của con người.
· Hành vi ứng xử giữa người với người cũng chính
là yếu tố tác động sâu sắc đến việc hình thành, thay đổi ý thức của mỗi người.
Khi một đứa trẻ được giáo dục và sinh sống tại một môi trường sống lành mạnh,
văn minh sẽ vô tình giúp đứa trẻ nhận thức được bản thân cũng phải có những
hành vi ứng xử như thế thì mới đúng và giống với mọi người xung quanh. Như vậy,
việc con người đối xử với nhau chân thật hay lừa dối lẫn nhau cũng sẽ khiến cho
người rơi vào hoàn cảnh đó nhận thức được việc làm như thế là sai hay đúng, có
lợi cho bản thân hay không và dần dần hình thành nên suy nghĩ của bản thân.
· Ngôn ngữ cũng tương tự như hành vi con người.
Con người sử dụng chung một loại ngôn ngữ trong một quốc gia sẽ nhận thức được
đây là một dân tộc và cần có những hành vi ứng xử phù hợp hơn. Đồng thời khi
con người sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ ra quan điểm của bản thân cũng sẽ khiến
cho đối phương nhận thức được những hàm ý trong lời nói và hình thành nên ý
thức của bản thân về một vụ việc nào đó. Do đó, ngôn ngữ chính là hệ thống tín
hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức, không có ngôn ngữ thì
thì ý thức không thể tồn tại được.
Như vậy, chúng ta có thể thấy ý thức được hình
thành dựa trên hai nguồn gốc trên. Những yếu tố trên sẽ tác động mạnh mẽ đến
việc hình thành ý thức của con người. Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết
định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời
với lao động là ngôn ngữ; đó là hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn
dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển
hóa thành ý thức.
Câu
3. Hãy phân tích khái
niệm thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Lấy ví dụ chứng minh
cho những vai trò đó?
Thực tiễn là
Có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau về thực tiễn; nếu chủ nghĩa duy tâm mới
chỉ cho rằng thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của
con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội;
trong khi đó chủ nghĩa duy vật trước Mác lại cho rằng thực tiễn là một
hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê
tiện, bẩn thỉu. Đến tận khi C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng
tạo những quan điểm và thực tiễn của các nhà triết học trước đó, đưa ra một
quan điểm đúng đắn và thực tiễn như sau:
Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng
công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục
đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng của bản chất con ngườ, nói tới thực
tiễn là hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác hẳn với hoạt động chỉ
dựa vào bản năng, thụ động của động vật.
Không phải mọi hoạt động có mục đích của con
người đều là thực tiễn. Hoạt động tư duy, hoạt động nhận thức hay hoạt động
nghiên cứu khoa học đều là những hoạt động có mục đích của con người nhưng chỉ
là hoạt động tinh thần không phải là thực tiễn.
thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ
yếu và trực tiếp của nhận thức
· Vì sao lại nói thực tiễn là cơ sở của nhận
thức? Xuất phát từ sự thật rằng mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với
bất kì đối tượng con người nào, ở bất kì trình độ kinh nghiệm hay lý luận đều
bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho quá trình nhận thức,
cho mọi lý luận. Thông qua những hoạt động thực tiễn, con người tác động vào
thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để
con người có thể nhận thức được chúng. Con người vốn quan hệ với thế giới bên
ngoài bằng thực tiễn chứ không phải bằng lý luận. Chính từ trong quá trình hoạt
động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và
phát triển. Lúc đầu con người thường thu nhận tài liệu một cách chủ quan, sau
đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa... để phản ánh bản
chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để xây dựng thành khoa học,
lý luận.
· Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi
lẽ nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh hay lĩnh vực nào đi chăng nữa thì cũng
phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết quả nhận thức phải hướng dẫn và chỉ
đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học không vận dụng được để cải tạo thực tiễn
thì không có bất cứ ý nghĩa nào.
· Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của
nhận thức. Thực tiễn giúp con người nhận thức toàn diện hơn về thế giới. Những
nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức là kết quả của thực.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giơi, con người cũng không
ngừng biến đổi theo. Từ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức và khám phá
thế giới, làm sâu sắc và phong phú vốn tri thức của mình về thế giới xung
quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải luôn luôn làm mới nguồn tri thức, biết
cách tổng kết kinh nghiệm, khái quảt lý luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn của con người cần tới
khoa học - từ đó dẫn đến sự ra đời của khoa học.
Ví dụ : Người công
nhân vệ sinh dùng chổi và hót rác để thu quét những đống rác bên vệ đường làm sạch
môi trường; hay hoạt động lao động của người công nhân trong nhà máy, xí nghiệp
tác động vào máy móc trên những dây chuyền sản phẩm để tạo ra những sản phẩm
đưa ra thị trường phục vụ con người...
Câu 1: Nhận định Sai vì:
Cùng 1 nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng 1 kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
Câu 1 . “Nguyên nhân nào thì sinh ra kết quả ấy, một nguyên nhân sẽ chỉ sinh ra một kết quả tương ứng”. Nhận định trên đúng hay sai? Hãy giải thích vì sao và lấy ví dụ để chứng minh
Nhận định "Nguyên nhân nào thì sinh ra kết quả ấy, một nguyên nhân sẽ chỉ sinh ra một kết quả tương ứng" là đúng. Chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh mối quan hệ gắn kết giữa nguyên nhân và kết quả, cho rằng mỗi nguyên nhân sẽ chỉ dẫn đến một kết quả cụ thể và không có sự biến đổi.
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là một phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Nội hàm của khái niệm nguyên nhân vừa trình bày đưa lại cho chúng ta nhận thức đầu tiên rất quan trọng, đó là sự vật hiện tượng không bao giờ là chính bản thân nguyên nhân, chỉ có sự tác động của các sự vật hiện tượng mới là nguyên nhân.
Tính khách quan
Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan của bản thân các sự vật. Nó tồn tại ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.
Vì mối quan hệ nhân quả là vốn có trong bản thân sự vật nên không thể đồng nhất nó với khả năng tiên đoán.
Tính tất yếu
– Tính tất yếu ở đây không có nghĩa là cứ có nguyên nhân thì sẽ có kết quả. Mà phải đặt nguyên nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
Một nguyên nhân nhất định trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra một kết quả nhất định. Đó là tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trong những điều kiện nhất định.
– Nếu những sự vật, hiện tượng về cơ bản là giống nhau, tác động trong những hoàn cảnh tương đối giống nhau thì sẽ gây nên những kết quả giống nhau về cơ bản.
Nếu các nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên càng ít khác nhau bấy nhiêu.
Tính phổ biến
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều được gây ra bởi những nguyên nhân nhất định.
Không có sự vật, hiện tượng nào không có nguyên nhân của nó. Vấn đề là chúng ta đã phát hiện, tìm ra được nguyên nhân hay chưa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ qua lại như sau
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
– Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
– Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
– Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.
Ví dụ: Nhúng một thanh sắt vừa mới nung đỏ vào chậu nước nguội, thì nhiệt độ của nước trong chậu sẽ tang lên. Sau đó, nước trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của thanh sắt.
Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Engels nhận xét rằng:
” Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau. Chuỗi nhân quả là vô cùng, không có bắt đầu và không có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể”
Ông cũng khẳng định:
” Nguyên nhân và kết quả là những biểu tượng có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi nào được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt, nhưng khi ta xét trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới, thì nguyên nhân hội tụ lại và quyện vào nhau trong biểu tượng về sự tác động qua lại phổ biến trong đó nguyên nhân và kết quả luôn đổi chỗ cho nhau: cái ở đây hay bây giờ là nguyên nhân, thì ở chỗ khác hay lúc khác lại trở thành kết quả và ngược lại..”
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng.
Câu 2. “Lao động là nhân tố hàng đầu trong nguồn gốc tự nhiên của sự hình thành ý thức con người”. Nhận định trên đúng hay sai và hãy giải thích vì sao?
Trả lời: Nhận định "Lao động là nhân tố hàng đầu trong nguồn gốc tự nhiên của sự hình thành ý thức con người" được coi là đúng. Chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh vai trò quan trọng của lao động trong quá trình hình thành và phát triển ý thức con người.
Theo quan điểm Mác-Lênin, con người là một phần của thiên nhiên và hoạt động lao động là hoạt động chủ động của con người trong việc tương tác với môi trường xung quanh để thay đổi và tạo ra sản phẩm. Qua hoạt động lao động, con người không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất mà còn tạo ra các mối quan hệ xã hội và tác động lên thế giới xung quanh.
- Ví dụ, khi con người lao động trong một ngành nghề cụ thể, qua quá trình làm việc và trải nghiệm, họ tích lũy kiến thức, kỹ năng, và hiểu biết về lĩnh vực đó. Lao động cũng tạo ra mối quan hệ xã hội, ví dụ như mối quan hệ lao động giữa công nhân và chủ nhân công việc. Qua lao động, con người không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất mà còn phát triển ý thức xã hội và ý thức về vai trò của mình trong xã hội.
• Lao động chính là những hoạt động của con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp cới nhu cầu của con người. Lao động sẽ tác động đến ý thức của con người cần phải làm gì và làm như thế nào để có thể thực hiện công việc một cách có hiệu quả nhất, vừa tiết kiệm được thời gian và công sức. Do đó, lao động có một tác động rất lơn đến việc hình thành suy nghĩ của con người.
• Hành vi ứng xử giữa người với người cũng chính là yếu tố tác động sâu sắc đến việc hình thành, thay đổi ý thức của mỗi người. Khi một đứa trẻ được giáo dục và sinh sống tại một môi trường sống lành mạnh, văn minh sẽ vô tình giúp đứa trẻ nhận thức được bản thân cũng phải có những hành vi ứng xử như thế thì mới đúng và giống với mọi người xung quanh. Như vậy, việc con người đối xử với nhau chân thật hay lừa dối lẫn nhau cũng sẽ khiến cho người rơi vào hoàn cảnh đó nhận thức được việc làm như thế là sai hay đúng, có lợi cho bản thân hay không và dần dần hình thành nên suy nghĩ của bản thân.
• Ngôn ngữ cũng tương tự như hành vi con người. Con người sử dụng chung một loại ngôn ngữ trong một quốc gia sẽ nhận thức được đây là một dân tộc và cần có những hành vi ứng xử phù hợp hơn. Đồng thời khi con người sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ ra quan điểm của bản thân cũng sẽ khiến cho đối phương nhận thức được những hàm ý trong lời nói và hình thành nên ý thức của bản thân về một vụ việc nào đó. Do đó, ngôn ngữ chính là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức, không có ngôn ngữ thì thì ý thức không thể tồn tại được.
Như vậy, chúng ta có thể thấy ý thức được hình thành dựa trên hai nguồn gốc trên. Những yếu tố trên sẽ tác động mạnh mẽ đến việc hình thành ý thức của con người. Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
Câu 3. Hãy phân tích khái niệm thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Lấy ví dụ chứng minh cho những vai trò đó?
Thực tiễn là
Có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau về thực tiễn; nếu chủ nghĩa duy tâm mới chỉ cho rằng thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội; trong khi đó chủ nghĩa duy vật trước Mác lại cho rằng thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Đến tận khi C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm và thực tiễn của các nhà triết học trước đó, đưa ra một quan điểm đúng đắn và thực tiễn như sau:
Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng của bản chất con ngườ, nói tới thực tiễn là hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của động vật.
Không phải mọi hoạt động có mục đích của con người đều là thực tiễn. Hoạt động tư duy, hoạt động nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học đều là những hoạt động có mục đích của con người nhưng chỉ là hoạt động tinh thần không phải là thực tiễn.
thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
• Vì sao lại nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? Xuất phát từ sự thật rằng mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với bất kì đối tượng con người nào, ở bất kì trình độ kinh nghiệm hay lý luận đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho quá trình nhận thức, cho mọi lý luận. Thông qua những hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có thể nhận thức được chúng. Con người vốn quan hệ với thế giới bên ngoài bằng thực tiễn chứ không phải bằng lý luận. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Lúc đầu con người thường thu nhận tài liệu một cách chủ quan, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa... để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để xây dựng thành khoa học, lý luận.
• Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh hay lĩnh vực nào đi chăng nữa thì cũng phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết quả nhận thức phải hướng dẫn và chỉ đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học không vận dụng được để cải tạo thực tiễn thì không có bất cứ ý nghĩa nào.
• Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức. Thực tiễn giúp con người nhận thức toàn diện hơn về thế giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức là kết quả của thực. Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giơi, con người cũng không ngừng biến đổi theo. Từ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức và khám phá thế giới, làm sâu sắc và phong phú vốn tri thức của mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải luôn luôn làm mới nguồn tri thức, biết cách tổng kết kinh nghiệm, khái quảt lý luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn của con người cần tới khoa học - từ đó dẫn đến sự ra đời của khoa học.
Ví dụ : Người công nhân vệ sinh dùng chổi và hót rác để thu quét những đống rác bên vệ đường làm sạch môi trường; hay hoạt động lao động của người công nhân trong nhà máy, xí nghiệp tác động vào máy móc trên những dây chuyền sản phẩm để tạo ra những sản phẩm đưa ra thị trường phục vụ con người...